100.000₫
Cỏ xước, Nam ngưu tất - Achyranthes aspera L., thuộc họ Rau dền - Amaranthaceae.
Cây thảo sống hằng năm hay hai năm cao khoảng 1m. Rễ nhỏ, cong queo, bé dần từ cổ rễ đến chóp rễ, dài 10-15cm, đường kính 2-5mm. Lá mọc đối, mép lượn sóng. Hoa nhiều, mọc thành bông dài 20-30cm ở ngọn cây. Quả nang, có lá bắc tồn tại thành gai nhọn. Hạt hình trứng dài.
Ra hoa vào mùa hè.
Toàn cây, chủ yếu là rễ - Radix Achyranthi Asperae.
Cây thuốc nam cỏ Xước là loài liên nhiệt đới, mọc hoang khắp nơi trên các bãi cỏ, ven đường đi, bờ bụi. Cũng được trồng bằng hạt. Thu hái cây quanh năm chủ yếu vào mùa hè thu, rửa sạch, thái nhỏ, dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Cỏ xước chứa 81,9% nước 3,7% protid, 9,2% glucid, 2,9% xơ; 2,3% tro; 2,6% caroten, 2,0% vitamin C. Trong rễ có acid oleanolic (sapogenin). Hạt chứa hentriacontane và saponin 2%, acid oleanolic, saponin oligosaccharide, acid oleanolic 1,1%. Cây cỏ xước có tác dụng gì?
Thảo dược quý Cỏ xước có vị đắng, chua, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu. Người ta đã biết là chất saponin trong rễ có tác dụng phá huyết và làm vón albumin. Cỏ xước còn có tác dụng chống viêm tốt ở cả giai đoạn mạn tính và cấp tính. Ở Ấn Ðộ người ta cho rằng cây có tính lọc máu, lợi tiểu, nước sắc rễ làm săn da, hạt gây nôn.
Ngọn và lá non vò kỹ, thái nhỏ, chần qua nước sôi, có thể xào hay nấu canh. Còn rễ cây và các bộ phận khác được dùng trị:
Cỏ xước có vị chua, đắng, tính bình (có tài liệu nói tính mát), có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu, làm lưu thông khí huyết. Đông y còn nhấn mạnh cỏ xước có khả năng chống viêm rất tốt ở giai đoạn mạn và cấp tính.
Cỏ xước có những tác dụng nổi bật như bổ gan thận, mạnh gân cốt... Loại cây này được sử dụng để chữa viêm khớp, phụ nữ sau sinh máu hôi không sạch, giảm cholesterol máu, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch...
Đặc biệt Đông y có sử dụng vị thuốc từ cỏ xước rất nhiều trong các bài thuốc chữa về bệnh thận.
Chữa sổ mũi, sốt; dùng Cỏ xước, lá Diễn, Ðơn buốt, mỗi vị 30g, sắc uống.
Rễ cỏ xước, một nắm to sắc uống (Nam dược thần hiệu).
Chữa quai bị, giã rễ Cỏ xước chế nước súc miệng và uống trong, bên ngoài giã lượng vừa đủ đắp
Cách 1 - Rễ cỏ xước 40g, Hy thiêm 28g, Thổ phục linh 20g, Cỏ nhọ nồi 16g, Ngải cứu 12g, Thương nhĩ tử 12g. Sao vàng, sắc đặc ngày uống 1 thang, uống 7-10 ngày liền.
Cách 2 - Rễ cỏ xước 16g, Hoàng bá 12g, Thương truật 12g. Sắc chia 2 lần uống trong ngày.
Cách 3 - Cây cỏ xước ngâm rượu. Rễ cỏ xước, Vòi voi, Kim ngân, Thổ phục linh, Hy thiêm, Ké đầu ngựa, Thiên niên kiện, Cây xấu hổ, Dây đau xương, Cây cà gai (lượng bằng nhau), chế thành cao và rượu thuốc.
Chữa đau nhức các khớp không nóng đỏ (các khớp nhức mỏi, đau một chỗ, tê bì, đau các cơ, vận động khó, miệng nhạt, rêu lưỡi trắng dính): Rễ cỏ xước 12g, Ý dĩ 16g, Tỳ giải 16g; Ngũ gia bì, Xuyên khung, Đan sâm, mỗi vị 12g; Rễ cây lá lốt 8g, Quế chi 6g, Bạch chỉ 6g. Sắc uống ngày 1 thang.
Rễ cỏ xước, Rễ cỏ tranh, Bông mã đề, Dây khố rách (mộc thông), mỗi vị 25g sắc uống (Nam dược thần hiệu).
Cỏ xước 16-24g sắc uống, (Nam dược thần hiệu).
Rễ cỏ xước 20g, Củ gấu (tứ chế), Ích mẫu, Nghệ xanh, mỗi vị 16g; Lá mần tưới, Tô mộc, Chỉ xác, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang (3-5 thang mỗi tháng).
Liều dùng: 15-30g dạng thuốc sắc. Dùng ngoài, lấy cây tươi giã đắp.
Rễ cỏ xước, Cỏ nhọ nồi, mỗi vị 10g; Lá bạc hà 100g, Măng vòi 9g, nước vo gạo 300ml. Rửa sạch giã nát, cho vào nước vo gạo sắc, lọc lấy 100ml. Uống liền trong 3 ngày.
Rễ cỏ xước 12g, Cỏ bợ 50g; Kim tiền thảo, Rễ dứa dại, Cỏ hàn the, mỗi vị 30g; Ngải cứu 20g, Dây chìa vôi 16g. Sắc uống. Phối hợp với châm cứu.
Rễ cỏ xước, tẩm cồn, nhai và ngậm hoặc sắc, ngậm và uống nước sắc.
Rễ cỏ xước, Nhục quế, Vòi voi, mỗi vị 80g, Xương hổ 100g, Câu kỷ tử 100g, Rễ cỏ tranh 40g, Đỗ trọng 10g. Ngâm với 4 lít rượu trong 7 ngày. Mỗi lần uống 30ml, ngày uống 2 lần vào bữa ăn.
Ở Ấn Ðộ người ta dùng toàn cây trị bệnh phù, bệnh trĩ, nhọt, phát ban da, đau bụng và rắn cắn. Rễ được dùng sắc để thu liễm. Hạt được dùng trong chứng sợ nước.
- Cỏ xước có thể được dùng vừa như 1 loại thực phẩm để ăn, vừa chữa bệnh. Có thể lấy lá non của loại cây này, nhúng qua nước sôi rồi tùy ý xào hoặc nấu canh.
- Trong Đông y thường sử dụng phần rễ cỏ xước để làm thuốc chữa bệnh. Hàm lượng dùng là 15 - 30g, uống ở dạng sắc. Nếu dùng ngoài thì có thể lấy lá giã ra rồi đắp.
1. Chữa sổ mũi, sốt; dùng Cỏ xước, lá Diễn, Ðơn buốt, mỗi vị 30g, sắc uống.
2. Chữa quai bị, giã rễ Cỏ xước chế nước súc miệng và uống trong, bên ngoài giã lượng vừa đủ đắp.
Dân gian cũng dùng cành lá Cỏ xước cho vào chuồng lợn nái cho lợn sinh đẻ dễ.
Cỏ xước được dùng để trị nhiều bệnh. Trong Đông y, cỏ xước chủ trị các bệnh về thận, bệnh xương khớp. Ngoài ra loại cây này còn được dùng như một dược liệu chữa bệnh mỡ máu cao, kinh nguyệt không đều, viêm xoang, cảm mạo...
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một số bài thuốc Đông y dùng cây cỏ xước trị các bệnh về thận.
- Bài thuốc hỗ trợ điều trị viêm cầu thận với các triệu chứng phù thũng, đái són, đái vàng thẫm, vàng da:
Rễ cỏ xước 25g. Rễ cỏ tranh, mã đề, mộc thông, huyết dụ, lá móng tay, huyền sâm mỗi vị 15g.
Sắc với 600ml nước, còn 200ml, chia uống 2 lần vào buổi sáng và buổi trưa sau ăn.
Một liệu trình điều trị là 10 ngày, nghỉ 15 ngày lại tiếp tục sử dụng nếu có chỉ định của thầy thuốc.
- Bài thuốc hỗ trợ chữa viêm gan, viêm thận, viêm bàng quang, đái vàng thẫm, đái đỏ, đái ra sỏi:
Cỏ xước, cỏ tháp bút, mộc thông, mã đề, sinh địa, rễ có tranh mỗi vị 15g, sắc lấy nước uống kèm với bột hoạt thạch 15g, chia 3 lần.
- Bài thuốc chữa suy thận, phù thũng, nặng chân, vàng da:
Rễ cỏ xước sao, mã đề cả cây, cúc bách nhật cả cây, cỏ mực mỗi vị 30g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 - 3 lần. Uống liên tục trong 7 - 10 ngày.